Thứ Ba, 24 tháng 4, 2012

Đọc “Có 500 Năm Như Thế” của Hồ Trung Tú


Đọc “Có 500 Năm Như Thế” của Hồ Trung Tú

Phạm Thị Hòa là một trong những học sinh xuất sắc của trường PTTH Hòa Vang (Đà Nẵng) vào những năm 1977-1979. Cô tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Huế sau đó sang định cư tại Canada, tốt nghiệp tiến sĩ ngôn ngữ học, giáo sư ngôn ngữ tại đại học Florida (Hoa Kỳ). Cô thực hiện nhiều chuyến đi về Việt Nam để nghiên cứu ngôn ngữ. Trong chuyến đi mới nhất về VN, cô đã gặp " Có 500 năm như thế" của Hồ Trung Tú. Cô đọc ngay và trên đường bay về Mỹ, cô đã viết về cuốn sách đó, gởi đến blog nầy.
*GS TS Andrea Hoa Pham  (Phạm Thị Hòa)
Nhà văn, nhà báo H Trung Tú đã mnh dn đưa ra công trình nghiên cu t m v bn sc văn hoá ca người Qung Nam và đt Qung Nam trong mi tương quan cht chvi văn hóa và con người Chăm pa.


Cun “Có 500 Năm Như Thế” có hai phn chính. Phn th nht viết về những chuyến di dân t bc min Trung vào Qung Nam và đến Phú Yên theo tng thi kỳ lch sử quan trọng, qua đó tìm cách giải thích điều làm nên bản sắc người Quảng Nam. Phần thứ hai viết về giọng nói đặc trưng của người Quảng Nam, một giọng nói ‘không giống ai’.

Trong c hai phn, H Trung Tú đu bc l nim say mê và tâm huyết đến ni nhiu ý đc đa anh lp li nhiu ln, như đ chc chn rng đc gi không b sót các ý quan trng đó.

Tht d thy thái đ làm vic nghiêm túc ca anh qua nhng tìm kiếm công phu gia phca nhiu thế h người đa phương, đt nhng câu hi thiết tha và nghiêm chnh v ci ngun ca người x Qung và tiếng nói ca h, nhiu câu trĩu nng khc khoi, như ‘Có th tiếp thu cái gì  mnh đt trng không?’ đ chng minh rng người Chàm đã không b đi c mà  li công cư hòa huyết vi người Vit. Vi công phu nghiên cu nhiu nămy, ngoài các chi tiết v ăn mc, búi tóc, hôn nhân... nếu tác gi có thể dành một phần xứng đáng nhắc đến bn sc dân tc ca người Chàm như mt tin đ, ni vi phn kết cái gì làm nên bn s‘nhiều khi xa lạ như một người nước ngoài, khó nhọc diễn đạt ý tưởng, thô mộc trong ứng xử, chỉ lấy sự chân thành để bù đắp, lấy sự quyết liệt để thay thế cho sự tinh tế thị thành’ của người Quảng, thì s giúp người đc hiu hơn điu tác gimun khẳng định. Cũng vậy, tuy không phải là cuốn sử nhưng vì phân tích sự kiện theo lối biên niên, người đọc sẽ dễ theo dõi hơn nếu phần kết có kèm bảng kê các năm với các sự kiện quan trọng đề cập trong công trình, như tác giả đã làm với phần các phương ngữ nhỏ hơn từ Quảng Nam đến Phú Yên.

Cái quý ca tác phm là dám đt vn đề theo một hướng mới, không ngi tránh li mòn, không ngi ‘đy vn đ thoát ra khi con s không’ như khi bàn v ging Qung.

H Trung Tú, trong khi không phi là nhà ng hc, đã công phu tìm tòi và đưa ra nhiu nhn xét làm tin đ cho lp lun ca anh. T ch cho rng người Qung Nam mang trong mình huyết thng Chàm, tác gi đi đến kết lun mnh dn rng lý do mà ging Qung Nam khác ging các đa phương khác đến như vy là vì ban đu do người mChàm c gng nói tiếng Vit bng ging Chàm trong các gia đình v Chàm chng Vit. Đc biệt, Hồ Trung Tú đưa ra các đợt di dân lớn khác thời điểm, và dùng ranh giới địa lý (như sông Bà Rén) và vật chất (như lũy Trường Dục) để phân vùng các phương ngữ nhỏ hơn của giọng Quảng do các nhóm di dân bị cô lập nhiều đời.

Trong khi cố gắng thuyết phc rằng giọng Quảng Nam là một hệ thống khác, là kết quả của việc người Chàm nói (phát âm) tiếng Việt, tác giả vẫn dùng giọng nói các địa phương khác làm ‘chuẩn’ để đổi chiếu. Vì nguyên âm a trong các giọng khác bị phát âm khác đi trong giọng Quảng, tác giả kết luận rằng giọng Quảng Nam không có nguyên âm a. Nếu nhìn giọng Quảng Nam như một thực thể toàn vẹn, có quy luật chặt chẽ và mang tính hệ thống, thì sẽ thấy rằng người Quảng Nam cũng có nguyên âm a như ai. Chỉ có điều nó xuất hiện ở nơi người bản ngữ không nghĩ tới, như cố giáo sư Cao Xuân Hạo đã nhắc đến trong thực nghiệm của ông, khi cho người nói giọng địa phương khác nghe người Quảng Nam phát âm chảy máu và ghi xuống, thì âm mà những người tham gia thực nghiệm “nghe thấy” và ghi xuống là chả má.* Nhưng vì sao t âm A mà biến sang âm B ch không phi C hay D, v.v... thì chng c không đến t suy lun mà thường phi qua các phng ni ti ca ngôn ng trong nhng hoàn cnh ngôn ng nht đnh (context-sensitive), hoc t cht liu ca các ngôn ng tham gia vào quá trình, như tác gi có gi ý khi bàn v các đt di dân mun đến min Nam trên đt Chân Lp cũ.

S hòa trn (diffusion) các yếu t ngôn ng là mt quá trình mà trong đó s đi mi được ph biến qua mt kênh giao tiếp nào đó, trong mt khong thi gian cn thiết, gia các thành viên ca mt công đng người (Rogers)**. Theo lý thuyết này, (âm thanh) ngôn ng biến đi nh vào 4 yếu t: sáng to, kênh giao tiếp, thi gian, và h thng xã hi (innovation, communication channels, time, social system).  trường hp ging Qung Nam, rt có th s vic đã xy ra như thế hoc gn như thế. Th nht là s sáng to trong bt chước cách phát âm. Th hai là nhu cu giao tiếp gia nhng người Vit di dân vào đt Chàm và cùng vi người Chàm to thành kênh giao tiếp. Th ba là thi gian vài thế kỷ ấy đ dài cho vic đnh hình yếu t mi trong giao tiếp. Và cui cùng h thng xã hi cn thiết đ đnh hình yếu t mi là h thng trong đó người Vit sng cng cư vi người Chàm trên di đt mi. Nhưng đây cũng ch là suy lun đ khi đu, như anh công nhn. Cn tìm ra mi liên quan gia các yếu t ngôn ng hoc các yếu t ngoài ngôn ng đã thúc đy giọng Quảng thay đổi, ‘đi xa’ đến thế so với giọng ban đầu của những người Việt di dân, để cho ra một hệ thống giọng nói như hiện nay, mà không phải là một hệ thống khác. Cái quan tâm trước hết của các nhà ngữ học không phải là vì sao nó thay đổi, mà thay đổi như thế nào. Cho nên có những người như Hồ Trung Tú cố gắng tìm giải đáp cho câu hỏi ‘vì sao’ là đóng góp đáng quý.

Chưa biết điều khẳng định ‘Mỹ Sơn chính là di sản tổ tiên ta để lại’ đúng đến đâu nhưng chắc chắn làm người đọc cảm động và cảm phục. “Có 500 Năm Như Thế” là một bằng chứng đẹp về cái thao thức bất tận trong việc đi tìm sự thật, bằng một thái độ viết tâm huyết, nghiêm túc, được nâng đỡ bởi một tâm hồn lãng mạn, bay bổng.

                                                                          Andrea Hòa Phạm

* Cao Xuân Hạo. 1998. Nhận xét về các nguyên âm của một phương ngữ ở tỉnh Quảng Nam. Trong Tiếng Việt Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, tr. 128-136. TP Hồ Chí Minh: NXB Giáo Dục.

**Rogers, Everett M. 1995. Diffusion of Innovations. 4th ed. New York: Free Press (MacMillan)



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét