Thứ Hai, 8 tháng 2, 2016

Những bài thơ xuân & Mùa xuân nhớ cha


*Cảnh Tết Nghèo, nhớ các thi sĩ Tùng Linh và Tú Xương
Tác giả Tùng Linh – Bùi Trung Đích, sinh năm 1931 tại xã Nghĩa Hòa – Thị trấn Thu Xà – Quảng Ngãi,
Ông là con một viên quan thời Triều Nguyễn nên thời trẻ có học tại Trường Tàu ở Thu Xà nên rất am tường chữ Hán và thơ Đường.
 
Năm ông 20 tuổi thì do sông Vạt Hồng bị sạt lở nên gia đình chuyển về quê ngoại ở thôn Vạn An, xã Nghĩa Thương, huyện
 Tư Nghĩa.
Ông làm thơ từ lúc còn rất trẻ và được thi sĩ Bích Khê rất quý.
Nhà thơ Tùng Linh xuất thân là con nhà quan nên có thể nói là gia cảnh tương đối sung túc, đời sống không phải lo toan gì kể cả trong những ngày xuân về tết đến.
Sau năm 1975, chính quyền mới “đánh” vào những thành phần tư sản, địa chủ, trung lưu, trí thức nhất là dùng biện pháp “đổi tiền” nên lúc đó cả đất nước đã ... được “bần cùng hóa” như nhau, đời sống phụ thuộc vào sự "ban phát" tem phiếu của nhà cầm quyền mà người ta gọi là thời “bao cấp”, kéo dài một thời gian trên mười năm trời. 
Cảnh nghèo hầu như bao phủ lên mọi nhà trong đó có cả những người trước kia thường được gọi là “nhà giàu”.
Cảnh này cũng rơi và gia đình thi sĩ Tùng Linh – Bùi Trung Đích. Lúc này chính quyền mới cho ông làm một chức thư ký nho nhỏ chuyên ghi chép công điểm của bà con trong một Hợp tác xã ở nông thôn, tất nhiên cũng lâm vào cảnh nghèo túng như bà con nông dân lúc đó.
Tết đến, nhà thơ chợt nhớ về cái cảnh xưa kia của gia đình vui xuân bình thường với những chậu “lan cúc”, nhà đầy đủ với “chả nem”, thuốc lá, trà ngon, rượu tây … mà cảm thấy tiếc nuối một thời đã qua, nay chỉ còn là những kỷ niệm.
Tùng Linh đã tự trào về một cái tết nhà nghèo của mình và ông đã cảm tác thành bài thơ “Xuân suông”

Năm mới vui xuân chén nước trà,
Thuốc rê giấy súc bập phì phà.
Chả nem muốn gói vườn khô lá,
Lan cúc quên trồng Cải nở hoa.
“Lạp xưởng” “Ca-ri” e chột dạ,
“Húyt ky” “Cô nhát” ngại sần da.
Gà, Heo chuồng trống ao không cá,
Vẫy bút mừng xuân, xuân với ta!
( Xuân Tỵ &Ngọ - 1977 - Tùng Linh – Bùi Trung Đích)

“Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” với một thi nhân tiền bối đồng hương, tôi “cảm họa” mấy vần thơ sau để gọi là một lòng thành tưởng niệm với người xưa khi mùa xuân sắp về với cái cảnh nghèo hiện tại của thi nhân …
*Tết nghèo (Hoài Nguyễn)
Lặng lẽ riêng mình đón tết xa,
Dù nghèo kẻ sĩ chẳng kêu ca.
Vườn mai nở rụng còn vài lá,
Bếp lửa im re chẳng thịt thà.
Pháo đốt hao tiền e xót dạ,
Hoa chưng tốn bạc sợ rầy rà.
Xuân ta trộm ngó quan vui quá,
Nghĩ phận dân tình đẫm lệ sa.

Viết tới đây, tôi chợt nhớ tới cảnh tết của nhà thơ trào phúng một thời: Tú Xương – Trần Tế Xương, cũng có những bài thơ cảm thán, xót xa cho cái cảnh nghèo của các nhà thơ ngày xưa mà chua chát thành những dòng thơ mang tính trào lộng cao độ:
Nhà thơ trào phúng ấy cũng là người hay tự trào. Tú Xương cười hay nói đúng hơn, thấm thía cái nghèo, cái bất lực, cái không thành đạt của mình Cảm Tết, Sắm Tết. Những câu đùa trong 2 bài thơ này là những câu đùa ra nước mắt: 
Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo
Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu
Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quẩy 
Trà sen mượn hỏi giá còn kiêu 
Bánh đường sắp gói e nồm chảy
Giò lụa toan làm sợ nắng thiu 
Thôi thế thì thôi đành tết khác 
Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo. 
Đặc biệt, bài Sắm tết, tiếng cười được nghệ thuật hư cấu phóng đại giúp sức trở nên những tiếng cười gằn: 
Tết nhất năm nay khéo thật là
Một mâm mứt rận mới bày ra
Xanh đồng thắng lại đen nhưng nhức
Áo đụp bò ra béo thực thà
Kẹo chú Sìu Châu đâu đọ được 
Bánh bà Hanh Tụ cũng thua xa 
Sang năm quyết mở ngôi hàng mứt 
Lại rưới thêm vào tí nước hoa.
Tác giả giễu mình mà hóa ra chửi đời. Tuy nhiên nỗi ghét đời kia lại chính là hình chiếu ngược của lòng yêu đời.
Tiếng cười cay độc, chua chát của Tú Xương có ý nghĩa phủ định xã hội, cái xã hội của những kẻ giàu sang hãnh tiến. Bài Năm mới chúc nhau của ông mà có lẽ nhiều người chúng ta đều biết, là tiếng chửi vào bọn người ấy, chứ không phải là chửi tùm lum tất cả.
Cảnh đời ngày nay thì cũng chẳng khác gì ngày xưa mấy và cái cảnh nghèo thì thời nào cũng thế…
…Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo,
Nhân tình trắng thế lại bôi vôi… (Tú Xương)
Nỗi đau thời nào của thi nhân với vận nước thì có lẽ cũng như nhau, nhưng rồi cũng đành bất lực nhìn đời và chỉ mượn những vần thơ để tự ru ngủ với mình về một cái tết, một mùa xuân đẹp chỉ còn ở trong …thơ!
Hoài Nguyễn – 05/02/2016

Phụ thân đã cởi hạc quy tiên vào một ngày mùa mưa năm 99 của thế kỷ trước .Mỗi lần đến tết ngoài cánh hoa mai vàng rung rinh trong nắng mới . Mọi người lo toan tất bật nào quét vôi ve, sơn sửa nhà cửa , trang trí bàn thờ , bánh trái đủ đầy . Ai cũng muốn có một không khí hân hoan chào đón năm mới . Ngoài khói trầm hương thoang thoảng trên bàn thờ gia tiên là những bài thơ khai bút đầu xuân . Những câu đối được nắn nót viết biểu hiện của nền văn hóa , của phong tục đón tết của người dân Việt . Trong không khí đón tết của những ngày đầu xuân , tôi lại nhớ đến phụ thân , nhớ đến người . Nhớ những bài thơ câu đối người viết dù trong cảnh bần hàn , đen tối của một giai đoạn chung gọi nôm na là những ngày bao cấp , những ngày sau giải phóng . Những ngày mà mọi người dân phải vào hợp tác xã . Ngoài ruộng đất của tư nhân phải trao quỳên quản lý định đoạt tài sản của mình cho hợp tác xã mà ruộng đất này là bao tiền của công sức của người dân qua nhiều thế hệ mới tạo lập được . Được chính quỳên mới gọi là tư liệu sản xuất phải thuộc vào sỡ hữu toàn dân nhưng thực tế chỉ thuộc quỳên quýêt định , định đoạt của một số ít người đang nắm quỳên lực . Thậm chí con bò , con trâu của người dân cũng phải thuộc về hợp tác . Và trên mông mỗi con trân con bò được đóng dấu bằng những chữ số 12, 13, 245, 143...để hợp tác xã dể quản lý

Trong hoàn cảnh như thế , trong cơ chế như thế sự đói kém triền miên đã xảy ra . Lúc đó dễ gì có đủ 3 bữa cơm ăn trong gia đình dù là ăn độn bo bo, khoai , sắn và cái đói triền miên dai dẳng hành hạ người dân . Và chính quỳên thường xuyên đổ lỗi cho hệ quả chiến tranh chứ không biết là do dẫn cả nước đi theo chủ thuyết cộng sản chỉ biết được qua lý thuyết . Chứ chưa hiểu đầu tiên là hệ lụy thê thảm về kinh tế với tác hại khôn lường của nó . Chính tác hại đó cũng là một nhân tố để buộc phải chấp nhận kinh tế thị trường gọi là xóa bao cấp

Trong hoàn cảnh như thế , tôi nhớ lại một bài thơ người , phụ thân tôi đã viết mừng tết năm Canh Thân . Tức là năm 1980
Bài thơ đó được người chép trang trọng , nắn nót bằng phấn trắng trên tấm bảng đen rất lớn treo ở trên tường nhà .Chữ viết của người rất đẹp.  Tấm bảng đen đó là nơi thỉnh thoảng người dạy thêm cho anh em chúng tôi học với những hiểu biết của người dù người chưa bao giờ là nhà giáo . Có lẽ do đặc điểm của dân Quảng Nam luôn luôn dù nghèo vẫn cố kiếm cho con một cái chữ . Tinh thần hiếu học của người Quảng muốn con cái vươn lên , thành đạt thoát khỏi cảnh nghèo của cha mẹ . Thời điểm đó nhà nước chưa cấm đốt pháo . Sau đây là bài thơ người viết mừng xuân Canh Thân 

Mỗi năm , mỗi tết mỗi xuân sang 
Đón tết nhà ai pháo nổ rang 
Nhà ta tết đến vui đoàn tụ 
Tuy thiếu mà xuân vẫn rất xuân 
Vẫn rất xuân đón tết Canh Thân 
Vui trong hoàn cảnh nghĩ xa gần 
Mùa xuân tất cả cho thiên hạ 
Rượu tết thơ xuân sướng vạn lần 

Xuân Canh Thân ( 1980 )



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét