Thứ Năm, 12 tháng 11, 2015

Tạ Trí Hải – Nghệ sĩ của đường phố

Tạ Trí Hải – Nghệ sĩ của đường phố

 Bút kí của Trần Vũ Long 

Ông là một người con của Hà Nội, một nghệ sĩ đường phố, không gia đình, không nhà cửa, sống cuộc đời nay đây mai đó cùng với những cây đàn. Cuộc đời ông đã phải trả nhiều giá đắt khi cố sống là một người trung thực, đấu tranh với cái xấu và cái ác. Thật cay đắng, nhưng suốt đời ông không tự đánh mất mình. Ông chính là một sứ giả của âm nhạc bởi đã đem lại niềm tin yêu vào cuộc sống vào con người cho tất cả những ai đã từng nghe ông chơi đàn theo cách giản dị và chân thật nhất. Ông đã làm nên một nét văn hoá của Hà Nội.
Có nhiều khi tự hỏi, mình có yêu thành phố này không. Đầy hoài nghi. Tại sao lại thế. Tôi đã sinh ra và lớn lên ở thành phố này, lẽ ra phải luôn yêu thương và gắn bó với nó chứ nhỉ. Nơi đó là tuổi thơ. Nơi đó là kỉ niệm buồn vui, là thăng trầm của cuộc đời mình. Ấy vậy mà nhiều lúc tôi muốn chạy trốn khỏi nó. Hà Nội ơi, thật có lỗi lắm thay nhưng đó là sự thật. Tôi muốn chạy trốn khỏi những ồn ào, xô bồ. Tôi muốn chạy trốn khỏi khói bụi. Tôi muốn chạy trốn khỏi sự nhếch nhác của phố phường. Tôi muốn chạy trốn khỏi những đổi thay kệch cỡm. Tôi muốn chạy trốn khỏi những khuôn mặt vô cảm, những ngôn từ hợm hĩnh, những thói đạo đức giả… Đó là những điều mà mỗi ngày tôi lại càng phải chứng kiến nhiều hơn trong thành phố của mình. Người ta đã đặt lên vai Hà Nội của tôi quá nhiều trọng trách, và làm biến đổi nó bằng mọi cách. Hà Nội của tôi mấy chục năm về trước đâu có thế. Tôi nhớ. Nhớ lắm… Những lúc như thế, tôi lại tìm đến một con người. Ông là một người con của Hà Nội. Một người không gia đình, không nhà cửa. Lâu nay rất nhiều người dân Hà Nội đã quá quen thuộc với hình ảnh một ông già râu tóc bạc phơ, đội chiếc mũ kiểu cao bồi, ngồi kéo đàn violon bên bờ hồ Hoàn Kiếm. Người ta gọi ông bằng cái tên dân giã và đầy trìu mến Nghệ sĩ đường phố.
Không biết đã bao lần tôi ngồi nghe ông kéo đàn, những bản nhạc viết về Hà Nội trong đêm mùa đông lạnh giá, đêm mùa hè oi bức hay những ngày thu Hà Nội trong xanh và lộng gió. Có thể tiếng đàn của ông chưa thực sự điêu luyện nhưng nó đã làm lay động trái tim tôi trong giây phút mệt mỏi giữa chốn đô thị phồn hoa này. Bộ râu đó, mái tóc đó, chiếc mũ cao bồi đó, cây đàn đó, phong thái lãng tử đó, gương mặt đẹp lão rất điện ảnh đó, những bản nhạc đó…đã giúp tôi tìm thấy một cõi bình yên, giúp tôi tìm lại được Hà Nội đích thực của mình. Những bài hát mà ông chơi, tôi đã được nghe hàng trăm lần rồi, thật khó mà tạo ra một cảm xúc mới. Nhưng khi đối diện với ông, lắng nghe tiếng đàn của ông, tôi thực sự cảm thấy rưng rưng. Lúc đó tôi thấy yêu Hà Nội của tôi và thương cho Hà Nội của tôi biết nhường nào. Tiếng đàn đó sao mà thân thương gần gũi, sao da diết đến buốt lòng. Đó là khi tuổi thơ của tôi đang hiện về, Hà Nội của tôi đang hiện về. Đó là hình ảnh đứa bé háo hức theo mẹ đi làm tại một cơ quan nằm ngay cạnh Bờ Hồ để được ăn kem Tràng Tiền. Đó là hình ảnh của những chuyến xe điện leng keng chạy quanh Bờ Hồ. Đó là hình ảnh các bà các chị gánh hàng hoa, hàng cốm, hàng rau cặm cụi và lam lũ nhưng sao gương mặt họ vẫn tươi tắn nụ cười. Đó là hình ảnh đứa bé cứ ôm chặt lấy mẹ mỗi khi tiếng còi tầm hú lên vào đúng 12 giờ trưa được phát ra từ nhà hát lớn. Đó là hình ảnh những chiếc nón lá màu trắng ngà của các bà các chị đang khoan thai đạp xe trên phố. Đó là hình ảnh một ông già khắc bút ngồi đối diện với Đền Ngọc Sơn đang cặm cụi khắc hình ảnh tháp rùa và dòng chữ Kỉ niệm Bờ Hồ lên những chiếc vỏ bút máy của các cô cậu học trò. Và còn biết bao kỉ niệm gắn liền với Bờ Hồ này với các con phố khác của Hà Nội cứ ùa về trong khoảnh khắc. Những lúc đó tôi thầm biết ơn ông, người bạn già, người nghệ sĩ đường phố đáng kính.
Ông sinh ra trong một gia đình tiểu thương ở phố Hàng Đường, Hà Nội, và bắt đầu học kéo đàn violon khi mới là một cậu học sinh tiểu học. Khi đó ông có người bạn đang học violon từ một ông thầy người Pháp, vì đam mê cây đàn ông đã học ké của bạn và tự học qua sách vở. Không những thế, sau này ông còn tự học thêm nhiều loại nhạc cụ khác, bây giờ ông có thể chơi violon, mandolin, ghita, piano… Tuổi thơ và thời trai trẻ của ông gắn liền với Bờ Hồ với 36 phố phường của Hà Nội và gắn liền với niềm đam mê chơi đàn. Sau những năm tháng quân ngũ, rồi tốt nghiệp Khoa Cơ khí, Đại học Bách Khoa Hà Nội ông vào làm cho một nhà máy. Công việc của người kĩ sư cơ khí xem ra thật trái ngược với niềm đam mê chơi đàn. Một bên cần sự khoẻ mạnh của đôi bàn tay để cầm búa tạ, một bên cần sự mềm mại của những ngón tay để chơi đàn. Khi đó ông chỉ chơi đàn ghita, mandolin, thỉnh thoảng mượn cây violon của bạn. Mãi đến gần 30 tuổi, ông mới gom góp đủ tiền mua một cây đàn violon đã cũ. Vậy là niềm mơ ước từ nhỏ đã thành hiện thực, khi ông được sở hữu một cây vĩ cầm. Kể từ đó, cây vĩ cầm trở thành người bạn tri kỉ, đi đâu ông cũng mang theo. Ông chơi đàn quên cả việc ngày mai không có gì để ăn, quên cả tiếng máy bay Mỹ đang gầm rú trên bầu trời Hà Nội. Sau khi thống nhất đất nước, ông xách ba lô vào Sài Gòn và làm việc cho Tổng công ty cao su. Khi đó cây cao su được xem như là kinh tế mũi nhọn là vàng trắng của đất nước. Với phong thái lãng tử và thẳng thắn hay đấu tranh cho lẽ phải, chàng kĩ sư mang trong mình bầu máu nóng đã phải chịu rất nhiều thiệt thòi. Năm 1990, do đấu tranh chống tham nhũng trong ngành, ông đã bị cho nghỉ việc một cách vô cớ khi mới ở độ tuổi 50, cái tuổi sung sức để có thể cống hiến cho tổ quốc. Kể từ đó đến nay, ông không có bất kì một chế độ nào. Không gia đình, không người thân, ông bươn trải kiếm sống giữa đất Sài Gòn hoa lệ và chui ra chui vào trong một căn phòng áp mái chật hẹp, tối tăm, ọp ẹp, do cơ quan phân cho trước đó. Ông cũng đã cho tôi xem những bức ảnh chụp căn gác đó, cột kèo, ván sàn mục nát, mái ngói thủng lỗ chỗ, trời mưa thì dột, trời nắng lại nóng bức. Trong căn gác đó không có bất cứ một đồ dùng gì ngoài ba cây đàn: vĩ cầm, ghi ta và mandolin. Ông bảo cả cuộc đời ông chỉ có những cây đàn là tài sản quý giá nhất. Hàng ngày ông lăn lộn kiếm sống bằng đủ nghề , tối lại trở về căn gác lụp xụp. Trong nỗi cô đơn, trong nỗi chán chường vì những bất công mà người đời đã gây ra, ông lại cầm đàn để vợi nỗi lòng mình. Người dân ở phố Ngô Đức Kế, Sài Gòn đã quá quen thuộc với tiếng đàn được phát ra từ căn gác nhỏ có ánh đèn điện leo lét vào mỗi tối. Tiếng đàn mang nỗi lòng của một kẻ tha hương nghèo khó, chịu nhiều cay đắng cuộc đời. Rồi những tối mùa hè nóng nực, không thể ở được trong căn phòng áp mái đó, ông đã ôm đàn ra công viên Nhà thờ Đức Bà để chơi đàn. Chính tại đây ông có những người bạn, họ yêu quý con người ông, yêu quý tiếng đàn của ông. Như thành thói quen, mỗi tối họ lại chờ đợi để được nghe ông chơi đàn. Đến một ngày cây vĩ cầm đã theo ông mấy chục năm trời bị hỏng. Ông thực sự đau khổ và thương tiếc người bạn tri kỉ của mình. Khi biết chuyện các bạn trẻ của Sài Gòn, những người hay nghe ông chơi đàn đã cùng nhau quyên góp tiền để mua cho ông một cây vĩ cầm khác. Là một người cô đơn, không gia đình nhưng bù lại ông có rất nhiều bạn bè với đủ mọi lứa tuổi và mọi quốc tịch. Ông có thể giao tiếp với người nước ngoài bằng ba thứ tiếng: Anh, Nga, Pháp.
Có người bạn là một nghệ sĩ nhiếp ảnh trẻ tuổi đã đi theo suốt hai năm để chụp những khoảnh khắc chơi đàn của ông. Năm ông tròn 70 tuổi, anh ta tổ chức cuộc triển lãm những bức ảnh đó để mừng thọ ông. Cũng trong buổi tối hôm đó, hàng trăm bạn trẻ kéo đến khu Nhà thờ Đức Bà chúc mừng sinh nhật ông. Trong không khí ấm cúng của các bạn trẻ của rượu vang và hoa, ông chơi đàn hết mình để đáp lại tấm lòng của mọi người. Ông bảo trong đời ông chưa khi nào lại chơi đàn hăng như hôm ấy. Ông cũng bảo đó là lần đầu tiên trong đời ông được tổ chức sinh nhật.
Nhiều người yêu quý ông, đã mời ông đi chơi đàn ở khắp nơi, đó là trại dưỡng lão, trại mồ côi, trung tâm điều dưỡng thương binh, những miền quê nghèo khó,… nơi mà cả đời họ chưa bao giờ được nhìn được nghe tiếng đàn vĩ cầm. Người ta đi làm từ thiện bằng của cải vật chất, còn ông thì mang tiếng đàn làm niềm vui cho mọi người. Thi thoảng cũng có người lại mời ông ra Hà Nội để giao lưu, mỗi lần như thế ông ở lại với Hà Nội rất lâu. Lần gần đây nhất là năm 2010, có một kênh truyền hình đã mời ông ra Hà Nội để làm phim. Ông đã được họ chọn là một trong số 100 nhân vật của Hà Nội để làm phim nhân dịp 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, bởi ông chính là một người con Hà Nội. Kể từ đó đến nay ông vẫn lưu lại Hà Nội, mảnh đất quê hương của mình. Không nhà cửa, ông tá túc nhờ người quen, đa phần họ đều là những người mới biết ông. Mỗi tối, ông lại ôm đàn ra Bờ Hồ, ngồi vào đúng chiếc ghế đó để chơi. Ông không để một chiếc mũ hay một cái gì đó tương tự cho mọi người có thể nhận biết ngay mà bỏ tiền vào. Ông để đó một chiếc túi gồm những cuốn sổ lưu bút. Đã có lần tôi hỏi, ông bảo chẳng quan trọng gì, mình là kiếp du ca, mang tiếng hát tiếng đàn làm vui cho mọi người là chính. Có thêm những người bạn đó là niềm vui lớn nhất của ông. Tôi cũng đã từng cầm bút ghi vào quyển sổ lưu bút thứ 18 của ông: “…Ông là một nghệ sĩ đường phố đã làm nên một nét văn hoá cho Hà Nội”. Ông bảo, ông đã dặn các bạn trẻ yêu quý mình rằng, nếu sau này ông chết nhớ bỏ vào quan tài ba cây đàn và những cuốn sổ lưu bút để ông mang sang thế giới bên kia vì chúng là những tài sản quý giá nhất cuộc đời ông. Trong những cuốn sổ lưu bút đó tôi đã đọc được những dòng chữ rất chân thành của biết bao con người từng được nghe ông chơi đàn. Tiếng đàn của ông giúp họ quên đi phiền muộn, những đau thương mất mát mà họ phải trải qua, quên đi những vất vả đời thường mà họ đang phải đối diện. Tiếng đàn của ông đã kết nối những trái tim lại gần với nhau, để rồi cảm thấy yêu thương con người, yêu cuộc đời này hơn. Ngồi bên ông, được nghe ông chơi đàn, được hoà chung tiếng hát cùng với ông ta cảm thấy như được tiếp thêm năng lượng cho ngày hôm sau của cuộc đời. Có thể tiếng đàn và tiếng hát của ông chưa hay, nhưng với niềm say mê âm nhạc, với một tâm hồn nghệ sĩ ông thực sự là một thiên thần, là một sứ giả của âm nhạc mang đến nguồn vui sống cho cuộc đời này. Và dường như ý nghĩa của âm nhạc chỉ giản dị vậy thôi nhưng đôi khi cũng bị người ta lãng quên. Rất nhiều ca sĩ nhạc sĩ có thể kiếm được bộn tiền nhưng họ không hề biết rằng mình đã thực sự đem lại điều gì cho tâm hồn người nghe, thậm chí chỉ đem lại sự mệt mỏi cho công chúng bởi những thứ họ đang diễn trên sân khấu và trong cuộc đời.
Mùa hè năm 2011, ông đã tham gia biểu tình cùng với những người yêu nước để phản đối hành động gây hấn của Trung Quốc ngoài Biển Đông. Một ông già ôm cây vĩ cầm đi trong đoàn biểu tình đã trở thành hình ảnh đẹp và ấn tượng của mùa hè năm ấy. Tiếng đàn của ông như tiếp thêm sức mạnh cho những trái tim yêu nước đang trào sôi. Khi người ta hỏi tại sao lại đi biểu tình, ông đã không ngần ngại mà nói rằng: Đoàn người biểu tình chống Trung Quốc là một hình ảnh đẹp hiếm có của Hà Nội, ông tự hào khi tham gia vào đoàn người đó. Ấy vậy mà ông cũng phải chịu nhiều hệ luỵ sau những lần biểu tình đó. Đã hơn một lần ông khăn gói ra đi khỏi nơi ông thuê trọ hay ở nhờ giữa đêm hôm khuya khuắt, vì chủ nhà không dám cho ông tiếp tục sống ở đó. Ông nói với họ cho ở đến sáng mai rồi sẽ đi nhưng chủ nhà nói tuy không muốn một tí nào nhưng nếu họ cho ông ở lại thêm nữa thì họ sẽ phải chịu những phiền phức. Vậy là hai bên đều ở vào thế đường cùng rồi. Giữa đêm, ông lại ôm những cây đàn của mình lang thang khắp các con phố Hà Nội. Và rồi những bước chân phiêu du già nua lại đưa ông trở lại đúng chiếc ghế đá bên Bờ Hồ. Trong đêm đó, người dân sống quanh Bờ Hồ đã được nghe văng vẳng như từ cõi xa xăm vọng lại một tiếng đàn du dương, da diết, mà đâu biết rằng có những giọt nước mắt đang rơi trên phím đàn. Còn nhiều những chuyện không hay khác mà ông phải gánh chịu vì đã tham gia biểu tình chống Trung Quốc. Ông không muốn nhăc đến những chuyện vặt vãnh ấy mà người ta đã gây ra cho ông. Thỉnh thoảng ông vẫn hát vang bài hát phản đối Trung Quốc xâm chiếm biển đảo của nước ta, dựa trên nền nhạc bài “Dậy mà đi” của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Ông bảo nếu có biểu tình chống Trung Quốc ông vẫn tham gia và không sợ gì cả. Cả cuộc đời ông chịu nhiều oan trái do chống tham nhũng nay phải chịu thêm nữa chỉ vì đi biểu tình để thể hiện lòng yêu nước thì đâu có xá gì. Rồi ông lại bảo, tại sao người Trung Quốc xuống đường biểu tình phản đối Nhật Bản cũng vì chuyện biển đảo thì báo chí của ta đưa tin còn những người Việt yêu nước biểu tình chống Trung quốc lại bị xem như hành động xấu. Đôi khi chỉ vì nỗi sợ bóng sợ gió nào đó mà người ta đã cố tình biến những điều tốt đẹp trở thành “xấu xa”. Thật cay đắng!
Đã có những đêm khuya vắng vẻ chỉ mình tôi ngồi nghe ông chơi những bản nhạc buồn da diết. Tiếng đàn như tan biến vào màn đêm nhưng lại mang nặng nỗi lòng của một người con xa xứ nay trở về với bao nỗi cơ cực, cô đơn trĩu nặng đang muốn được giãi bày cùng với hàng cây, ghế đá, mặt hồ lung linh trên mảnh đất quê hương này. Trời đã về khuya nhưng ông vẫn muốn giữ tôi lại bằng tiếng đàn và những câu chuyện của mình. Rồi ông bảo trời mùa hè nóng bức, căn phòng mà ông ở nhờ cũng rất nóng không ngủ được, ông muốn ngồi thêm chút nữa, khi trời đã ngả về sáng thì sẽ đỡ nóng hơn, dễ ngủ hơn. Tôi cũng đã được cùng ông lang thang khắp 36 phố phường Hà Nội, được nghe ông kể những kỉ niệm tuổi thơ của mình gắn với từng con phố. Ai đó đã từng nói thứ nặng nhất trên đời đó là kí ức còn đối với ông kí ức không phải là hành trang trĩu nặng mà nó chỉ giúp ông thư thá lòng mình mỗi khi nhớ về nó, nhớ về một Hà Nội thanh bình, một Hà Nội nên thơ trong sáng của ông. Những nỗi cơ cực dường như ông đã gạt sang một bên, nếu không thì ông đâu có thể ngồi chơi đàn mỗi tối thật hồn nhiên và đầy chất lãng tử như thế.
Cách đây không lâu, kẻ trộm đã lấy mất của ông chiếc xe đạp, đó là chiếc xe của một người chỉ mới quen sau vài lần nghe ông chơi đàn đem tặng. Nhưng một tuần sau những người bạn, những khán giả của ông đã quyên góp được số tiền kha khá để gửi vào tiết kiệm cho ông và lại có người đem đến biếu ông chiếc xe đạp khác. Tôi cũng đã từng gặp nhiều người đến thăm hỏi, nghe ông chơi đàn, rồi họ lặng lẽ bỏ phong bì vào chiếc túi của ông. Ngày nay hình ảnh chiếc phong bì thường làm ta mất cảm tình khi nghĩ đến mặt trái gắn liền với nhiệm vụ của nó. Nhưng những chiếc phong bì người ta bỏ vào túi ông đã làm tôi rơi nước mắt. Tôi thầm cảm ơn tấm lòng của những con người Hà Nội. Họ đã yêu thương nhau đùm bọc nhau khi khó khăn. Tôi lại thấy yêu Hà Nội hơn bởi Hà Nội của tôi vẫn còn nhiều điều ấm áp lắm.
Khi ông nói chuẩn bị quay về Sài Gòn và không biết bao giờ mới được trở lại Hà Nội, tôi chợt thấy lòng mình trống vắng. Hà Nội sẽ nhớ ông. Người dân Hà Nội sẽ nhớ ông. Bạn bè Hà Nội sẽ nhớ ông. Và mỗi khi mệt mỏi với cuộc sống đô thị tôi sẽ tìm đến đúng chiếc ghế bên Bờ Hồ như được mặc định với cái tên Nghệ sĩ đường phố Tạ Trí Hải như để lắng nghe một giai điệu buồn từ xa vắng. 
T.V.L 
*Tác giả gửi trực tiếp cho Tễu Blog.
đăng lần đầu 20/09/2012.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét