Chân lý không thuộc về số đông
Chân lý không thuộc về số đông, chân lý là chân lý . Để có được cuộc sống và khoa học phát triển
như ngày nay biết bao nhiêu là người đã gầy dựng nên. Khi thuyết địa tâm còn
thống trị, chỉ có Giorrdano Bruno tìm ra và chứng minh được trái đất quay quanh
mặt trời.
Chỉ có Isaac Newton mới đặt câu hỏi tại sao trái táo lại
rụng xuống đất chứ không rơi theo kiểu khác và ông đã tìm ra định luật vạn vật
hấp dẫn. Trong quá trình khám phá, phát triển của khoa học có những bài toán
đặt ra và không đúng với định luật vạn vật hấp dẫn hay dùng định luật vạn vật
hấp dẫn không giải thích thấu đáo được và nhà bác học Einstein tìm ra thuyết
tương đối…
Như vậy khoa học xã hội và khoa học tự nhiên muốn phát triển
được cần có không khí tự do và dân chủ.. Nghĩa là có thể tìm hiểu nhiều khuynh
hướng không bị ràng buộc bởi tư duy giáo điều, bởi định hướng gì gì đó….
Chính với suy nghĩ như trên xin giới thiệu với các bạn :
Luận văn
Nhã Thuyên : tiếng nói của một số người trong cuộc
Tiến sĩ Chu Văn Sơn : Tôi cho rằng một nền văn học bình
thường là nền văn học phải tạo được sân chơi cởi mở cho nhiều khuynh hướng sáng
tạo, nhiều trường phái, nhiều nhóm sáng tạo cùng nảy nở. Và mọi khuynh hướng,
mọi trường phái, mọi nhóm ấy có quyền tồn tại bình đẳng. Còn giá trị mà mỗi
khuynh hướng, mỗi nhóm ấy tạo ra hay dở thế nào, sẽ tùy thuộc vào sự đánh giá
của công chúng nghệ thuật và sự sàng lọc của thời gian.
Luận văn
Nhã Thuyên : tiếng nói của một số người trong cuộc
Nguyễn Hiếu Quân thực
hiện
Luận văn Thạc
sĩ “Vị trí kẻ bên lề: Thực hành thơ
của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa” của Đỗ Thị Thoan (dưới
đây gọi tắt theo tên phổ biến hơn là Luận văn Nhã Thuyên – LVNT) đang được dư luận quan tâm đặc
biệt, nhất là khi Luận văn này được một Hội đồng thẩm định lại và sau đó Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội (ĐHSP HN) ra quyết định số 667/QĐ-ĐH SP HN không công
nhận Luận văn này. Nhận thấy sự kiện LVNT có nhiều vấn đề cần được làm sáng tỏ,
chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn với một số người trong cuộc, bao gồm: PGS.TS
Nguyễn Thị Bình (Khoa Ngữ Văn, ĐHSP HN) – giáo viên hướng dẫn khoa học luận
văn; và hai thành viên trong vai trò phản biện thuộc Hội đồng chấm LVNT: PGS.TS
Ngô Văn Giá (Đại học Văn hóa HN), TS. Chu Văn
Sơn (Khoa Ngữ Văn, ĐHSP HN). Cuộc phỏng vấn này, như độc giả thấy, có thể coi
là sự lên tiếng chính thức đầu tiên trước công luận, điều vốn rất được nhiều
người chờ đợi, của những người không chỉ liên quan, hiểu rõ LVNT mà còn có tri
kiến nhất định về đời sống văn học, văn hóa, giáo dục Việt Nam hiện nay. Chúng
tôi trân trọng cảm ơn sự hợp tác chân thành, nghiêm túc của các ông/bà có tên
trên và đồng thời, hi vọng độc giả đón nhận bài phỏng vấn này trong tinh thần
đối thoại thấu đáo, đẹp đẽ.
Trước khi theo
dõi cuộc phỏng vấn, để có thông tin bao quát, xin được nhắc lại một số diễn
biến xoay quanh LVNT:
– Đỗ Thị
Thoan, bút danh Nhã Thuyên, sinh năm 1986, tốt nghiệp Khoa Ngữ Văn – ĐHSP HN
năm 2007, học Cao học (Thạc sĩ) chuyên ngành Văn học Việt Nam hiện đại tại Khoa
Ngữ Văn – ĐHSP HN khóa 18 (2009 – 2010)
– Ngày
2/12/2010, Trường ĐHSP HN ra Quyết định số 7460/QĐ – ĐHSP HN về việc thành lập
Hội đồng chấm luận văn Thạc sĩ cho học viên Đỗ Thị Thoan. Đề tài: “Vị trí kẻ
bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa”. Hội đồng chấm
gồm:
PGS.TS Nguyễn
Văn Long (ĐHSP HN) – Chủ tịch Hội đồng
TS. Chu Văn
Sơn (ĐHSP HN): Phản biện
PGS.TS Ngô Văn
Giá (ĐH Văn hóa): Phản biện
PGS.TS Nguyễn
Đăng Điệp (Viện văn học): Ủy viên
TS. Nguyễn Văn
Phượng (ĐHSP HN): Thư kí
Tác giả Luận
văn đã bảo vệ thành công đề tài, nhận số điểm tuyệt đối (10/10)
– Tháng 3 năm
2011, Trường ĐHSP HN ra Quyết định số 676/QĐ – ĐHSP HN cấp bằng Thạc sĩ khoa
học Ngữ văn cho Đỗ Thị Thoan, số hiệu bằng 7437.
– Cuối tháng
3/2013, bắt đầu xuất hiện một số bài phê bình gay gắt LVNT trên báo chí, bắt
đầu với bài của Chu Giang Nguyễn Văn Lưu trên báo Văn nghệ Tp HCM, tiếp đó là
loạt bài có chung giọng điệu xuất hiện trên nhiều báo (giấy) khác nhau (trong
bối cảnh báo chí Việt Nam, đó là biểu hiện của chính thống). Cùng thời điểm,
cũng có một số bài tỏ tinh thần bảo vệ LVNT, coi việc đả kích LVNT là biểu hiện
của sự thiếu tự do học thuật, của phê bình chỉ điểm, phê bình chỉnh huấn. Loạt
bài này chủ yếu đăng tải trên diễn đàn mạng. Từ đây đến hết năm 2013, tạm coi
là giai đoạn “tranh luận về LVNT”.
– Ngày
5/3/2014, Trường ĐHSP HN có kết luận và đề nghị của Hội đồng thẩm định luận văn
Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn của Đỗ Thị Thoan. Hiện “kết luận và đề nghị” này chưa
được công bố. Theo nguồn thông tin được đăng tải, Hội đồng thẩm định này bao
gồm:
PGS.TS Đoàn
Đức Phương (ĐH KHXH-NV): Chủ tịch Hội đồng
GS. Đặng Thanh
Lê (ĐHSP HN, đã nghỉ hưu)
PGS.TS Phan
Trọng Thưởng (Viện Văn học)
PGS.TS Lê
Quang Hưng (ĐHSP HN)
PGS.TS Phạm
Duy Đức (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh)
– Ngày
11/3/2014, Trường ĐHSP HN ra Quyết định số 667/QĐ – ĐHSP HN về việc không công
nhận luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn của Đỗ Thị Thoan.
– Ngày
14/03/2014, ĐHSP HN ra Quyết định số 708/QĐ – ĐHSP HN về việc thu hồi bằng Thạc
sĩ khoa học Ngữ văn của Đỗ Thị Thoan.
– Ngày
30/03/2014, Nhã Thuyên đã công bố Hồ sơ bảo vệ Luận văn năm 2010 trên internet,
blog cá nhân[1]. Đến đây, tạm coi LVNT đã thuộc về tài sản
công cộng và sự đánh giá, bình luận sau đó về Luận văn, sự kiện LVNT chắc chắn
vượt ra khỏi phạm vi một cá nhân, đơn vị cụ thể.
Nguyễn Hiếu
Quân (NHQ): Trước tiên xin hỏi PGS.TS Nguyễn Thị Bình (NTB): xin bà cho biết qui trình thực hiện một luận văn
Thạc sĩ ở trường ĐHSP HN trải qua những bước chính nào, từ khi học viên bắt đầu
đến khi luận văn được bảo vệ?
NTB: Sau khi phân công người hướng dẫn
(thường là gần cuối giai đoạn học viên học các chuyên đề), học viên làm việc
với người hướng dẫn để xác định đề tài luận văn, tiến hành các thao tác đầu
tiên như làm thư mục tư liệu cần đọc, tìm kiếm và bao quát tư liệu, hình thành
đề cương. Tiếp đó đề cương sẽ được thông qua ở Hội đồng bộ môn. Nếu Hội đồng
kết luận là đề tài có thể triển khai thì học viên sẽ báo cáo lại với người
hướng dẫn các ý kiến đóng góp của Hội đồng, thống nhất phương án chỉnh sửa và
triển khai đề tài. Khi văn bản hoàn thành, người hướng dẫn thấy đủ điều kiện
đua ra bảo vệ sẽ có văn bản đề nghị với Trưởng Bộ môn. Trưởng Bộ môn lập danh
sách Hội đồng chấm Luận văn (gồm 3 thành viên là người của ĐHSPHN, 2 ngoài
trường. Trong 2 phản biện, phải có ít nhất 1 người ngoài trường. Tất cả thành
viên Hội đồng đều phải có học vị Tiến sĩ trở lên và phải đúng chuyên ngành,
hoặc chuyên ngành gần gũi). Danh sách Hội đồng này được Ban chủ nhiệm khoa ký
duyệt. Học viên nộp bản lưu luận văn cho thư viện trường, lấy giấy biên nhận
của thủ thư rồi qua Phòng Sau đại học hoàn tất thủ tục bảo vệ. Hồ sơ bảo vệ
được trình lên Ban giám hiệu, khi có Quyết định của Hiệu trưởng, Hội đồng chấm
luận văn mới ấn định thời gian bảo vệ. Quá trình làm thủ tục được quy định là
10 ngày.
NHQ: Như vậy luận văn về Mở Miệng đã được một hội đồng duyệt đề tài thông
qua. Xin hỏi, trong quá trình thực hiện đề tài về Mở Miệng, bà và học viên có
nhận được những phản biện trái chiều nào từ đơn vị đào tạo hay những người có
cùng chuyên môn không?
NTB: Đề tài được cho ban đầu là ¨Hiện tượng
bên lề hóa trong thơ Việt đương đại¨. Tại buổi thông qua đề tài, Hội đồng bộ
môn ghi nhận tính văn học sử, tính thời sự của đề tài phù hợp với chuyên ngành
Văn học Việt Nam
hiện đại. Tuy nhiên tên đề tài còn hơi mơ hồ và đối tượng khảo sát quá rộng.
Hội đồng góp ý học viên nên xác định rõ hơn hướng tiếp cận và phạm vi khảo sát
cũng nên thu hẹp lại cho phù hợp với quy mô một luận văn Thạc sĩ. Sau đó chị Đỗ
Thị Thoan và người hướng dẫn đã trao đổi, đi đến thống nhất chỉnh lại theo góp
ý của Hội đồng bộ môn và đề tài chính thức là ¨Vị trí kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở miệng từ góc nhìn văn
hóa¨. Khi đưa ra bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn Thạc sĩ do
trường ĐHSPHN thành lập vào tháng 12/2010, tác giả luận văn còn nhận được thêm
các ý kiến đóng góp của các thành viên Hội đồng, nhưng thời điểm ấy, theo quy
định, học viên phải nộp bản luận văn cho thư viện, lấy giấy biên nhận mới được
hoàn tất thủ tục bảo vệ nên những ý kiến đóng góp trong buổi bảo vệ sẽ chỉ được
tiếp thu tại chỗ chứ không được thể hiện ở bản lưu trên Thư viện trường. Từ năm
2012 trở đi, trường mới điều chỉnh lại quy trình (Học viên bảo vệ xong, chỉnh sửa
văn bản theo góp ý của Hội đồng, xin xác nhận rồi mới nộp thư viện).
NHQ: Xin hỏi PGS.TS Ngô Văn Giá (NVG) và TS Chu Văn Sơn (CVS): xin hai ông
cho biết một cách ngắn gọn việc mình đã tham gia chấm LVNT như thế nào? Hội
đồng chấm LVNT mà các ông là thành viên đã thống nhất cho điểm tuyệt đối
(10/10). Cá nhân hai ông đã dựa trên những tiêu chí nào để đưa ra số điểm đó?
NVG: Tôi lâu nay vẫn là cộng tác viên tham
gia đào tạo (hướng dẫn và chấm luận văn/luận án) của hai Bộ môn: Văn học Việt Nam hiện đại và
Lý luận văn học thuộc khoa Ngữ văn- ĐHSPHN. Đây là việc làm bình thường và đều
đặn trong nhiều năm nay của tôi ở cơ sở đào tạo này. Còn việc tôi cho điểm 10
căn cứ vào 3 yếu tố: chất lượng luận văn, năng lực trình bày/ bảo vệ luận văn,
cuối cùng là triển vọng nghiên cứu khoa học của tác giả luận văn.
CVS: Tôi theo dõi sự trưởng thành của bạn
Thoan với cả một quá trình khá dài: từ khi Thoan còn là học sinh giỏi của
trường chuyên Nguyễn Trãi (Hải Dương), đến lúc vào khoa Văn này ở bậc học Cử
nhân, rồi bậc học Cao học. Theo dõi cả chuyện viết lách của Thoan nữa. Tôi thấy
Thoan là trường hợp hiếm, một học viên tài năng, một cây bút đầy triển vọng.
Tôi tham gia hội đồng chấm luận văn của Thoan trong vai trò phản biện. Nội dung
phản biện chính của tôi thì đã thể hiện ở bản nhận xét, mà đến nay, nó cũng đã
được bạn Thoan công bố trong bộ hồ sơ “bạch hóa” chuyện bảo vệ của bạn ấy. Ở
đây, bạn hỏi, tôi chỉ khẳng định lại thôi. Quan điểm của tôi là tôn trọng tự do
học thuật. Đối với khoa học chân chính thì không có gì là cấm kị cả. Tất cả mọi
vấn đề của đời sống văn học cần phải được nghiên cứu, kể cả hay lẫn dở. Là
nghiên cứu khoa học (chứ không phải làm anh tuyên truyền) thì hay cũng cần phải
biết hay thế nào, vì sao hay; dở cũng phải biết dở thế nào, vì sao dở. Né tránh
là phi khoa học, là trái với sứ mệnh của khoa học. Do đó, tôi thấy nhóm Mở Miệng là hiện tượng rất cần
được nghiên cứu. Và, với tinh thần tôn trọng tự do học thuật, tôi ủng hộ việc
lựa chọn đối tượng nghiên cứu của bạn Thoan. Còn việc đánh giá một luận văn
khoa học trong học đường nói riêng, một công trình khoa học văn học nói chung,
tôi nghĩ, đã là một người làm khoa học, một người thầy thực sự, thì không bao
giờ được lấy quan điểm riêng của mình ra để áp đặt cho tác giả. Cho nên, dù
quan điểm của tác giả công trình chưa chắc đã đồng quan điểm với mình, tôi vẫn
tôn trọng, miễn là sự luận giải của tác giả về vấn đề đặt ra là nghiêm túc, có
căn cứ, có lí lẽ, có bằng chứng xác đáng. Một hệ thống luận giải nghiêm túc, dù
thuộc khuynh hướng nào, cũng thể hiện một cách nhìn, một cách tiếp cận. Khoa
học cần nhiều cách nhìn, nhiều cách tiếp cận khác nhau về cùng một đối tượng.
Bạn Thoan đã chọn một cách tiếp cận tương đối hiện đại (đối với học thuật ở
Việt Nam )
và đã luận giải một cách xuất sắc theo hướng tiếp cận ấy. Qua bản luận văn, có
thể thấy bạn Thoan đây đó hãy còn cực đoan trong nhãn quan và nhiệt tình, nhưng
không thể không thấy bạn ấy là người có bản lĩnh khoa học dám dấn thân vào
những vấn đề phức tạp, cập nhật tốt các lí thuyết mới mẻ, sắc sảo trong tư duy,
nhất quán trong việc giải quyết vấn đề. Đó là những khía cạnh của một năng lực
xuất sắc đối với một học viên. Vì thế, tôi nhất trí với ý kiến chung của toàn
thể hội đồng.
NHQ: LVNT, thực tế, không phải nghiên cứu đầu tiên về nhóm Mở Miệng[2]. Theo hai
ông, đâu là điểm khác biệt cơ bản trong nghiên cứu của Nhã Thuyên và các bài
tiểu luận, phê bình này?
NVG: Điểm khác biệt nhất ở luận văn này là
tác giả đã tiếp cận dựa trên một khung lý thuyết nghiên cứu mới: lý thuyết diễn
ngôn mà trong trường hợp này, hạt nhân của nó là những tìm hiểu và cắt nghĩa
những yếu tố ngoại quan chi phối/quy định việc hình thành diễn ngôn thơ của
nhóm Mở Miệng. Luận văn
được tiến hành một cách có hệ thống, tương đối toàn diện về đối tượng nghiên
cứu. Trong khi ở các tiểu luận khác, mỗi tác giả lựa chọn một/vài vấn đề mang
tính cục bộ của nhóm thơ này.
CVS: Có lẽ đây là lần đầu tiên có một công
trình đặt ra nghiên cứu về nhóm Mở
Miệng một cách trực diện và toàn diện từ góc nhìn văn hóa theo
tinh thần của thuyết Tâm – Biên (Trung tâm – Ngoại biên).
NHQ: Như
vậy, vấn đề có lẽ ở chỗ: chỉ đến khi Mở Miệng đi vào nhà trường, đi vào nghiên
cứu hàn lâm ở bậc sau đại học, thì nó trở nên bị “cấm kị” và gây ra những hệ
lụy ngoài khoa học. Có thể coi đây là ví dụ cho thực tế “cấm kị” trong nghiên
cứu khoa học xã hội không, thưa quí vị?
NVG: Đây mới là điểm “tréo ngoe” trong hoạt
động nghiên cứu khoa học ở trường đại học. Đã là nghiên cứu, không nên có
chuyện khoanh vùng đối tượng nghiên cứu. Nếu như vậy, hoạt động nghiên cứu sẽ
có lỗi và lạc hậu đối với thực tiễn luôn luôn sinh động và phức tạp.
CVS: Thì sự thật đã rõ như ban ngày, gọi là
chuyện “cấm kị”, hay là chuyện thiếu tự do học thuật thì cũng thế.
NHQ: Thưa PGS.TS Nguyễn Thị Bình, là người trực tiếp hướng dẫn học viên, bà
có nhận xét gì về thái độ làm việc cũng như tinh thần khoa học của học viên?
NTB: Tôi biết Đỗ Thị Thoan khi chị là sinh
viên năm thứ 4 tại khoa Ngữ văn dù trước đó có nghe nhiều đồng nghiệp khen năng
lực vượt trội của sinh viên này. Khi tiếp xúc tôi thấy bạn ấy khá hồn nhiên,
thậm chí vụng về trong giao tiếp nhưng niềm say mê văn chương, sự sắc sảo trong
tư duy học thuật của Thoan mới là phẩm chất nổi bật. Bạn ấy có sức đọc đáng nể,
tiếng Anh khá tốt, luôn muốn đi đến cùng một vấn đề nào mà mình quan tâm. Có
thể nói Thoan là một trong số những học trò có khả năng làm việc độc lập, có
tinh thần khoa học nghiêm túc nhất mà tôi từng hướng dẫn.
NHQ: Thưa TS. Chu Văn Sơn, là người dành nhiều năm nghiên cứu thơ Việt Nam
hiện đại, cá nhân ông có nhận xét gì về thơ ca của nhóm Mở Miệng? Việc “thực
hành thơ” của nhóm Mở Miệng – như cách gọi của Nhã Thuyên, theo ông, có thể
đánh giá như thế nào trong bối cảnh văn hóa văn học Việt Nam đương đại?
CVS: Tôi cho rằng một nền văn học bình
thường là nền văn học phải tạo được sân chơi cởi mở cho nhiều khuynh hướng sáng
tạo, nhiều trường phái, nhiều nhóm sáng tạo cùng nảy nở. Và mọi khuynh hướng,
mọi trường phái, mọi nhóm ấy có quyền tồn tại bình đẳng. Còn giá trị mà mỗi
khuynh hướng, mỗi nhóm ấy tạo ra hay dở thế nào sẽ tùy thuộc sự đánh giá của
công chúng nghệ thuật và sự sàng lọc của thời gian. Vì thế, dù không đánh giá
cao nhóm Mở Miệng, nhưng
tôi không xem sự xuất hiện của nhóm Mở
Miệng trong đời sống văn học là hiện tượng bất thường.
NHQ: Nhìn vào những bản nhận xét của các thành viên trong Hội đồng chấm
LVNT thì, về cơ bản, LVNT đã được hội đồng chấm cũng như nhiều nhà chuyên môn
trong đơn vị đào tạo cho rằng tốt, đủ cơ sở và điều kiện để công nhận học vị
Thạc sĩ. Trường ĐHSP đã ra Quyết định cấp bằng Thạc sĩ. Nhưng gần 3 năm sau,
LVNT lại bị/được đưa ra bàn luận, xem xét lần nữa. Theo quí vị, đâu là nguyên
nhân chính của việc này? Là những người giảng dạy lâu năm ở đại học, quí vị đã
từng biết có trường hợp luận văn Thạc sĩ nào được “xem xét nguội” như vậy chưa? Đã có nhiều ý kiến cho rằng, LVNT có tư tưởng phản
động, phản văn hóa. Từ quan điểm của quí vị, do đâu lại có nhận xét đó?
NVG: Bàn chuyện khoa học bằng những chuyện
ngoài khoa học là một căn bệnh cũ tưởng đã được thanh toán, nay lại tái phát.
CVS: Hiện tượng lập một hội đồng để xem xét
lại luận văn thạc sĩ theo như cung cách vừa rồi (bạn gọi là “xem xét nguội”,
còn tôi thì gọi là “hội đồng nặc danh”) trong lịch sử Đại học Việt Nam, có thể
khẳng định là: xưa nay chưa từng có. Có thể đưa vào mục “Chuyện lạ đó đây” của
truyền thông đại chúng. Bạn hỏi do đâu có những qui kết rằng luận văn kia là có
“tư tưởng phản động” và “phản văn hóa” à, thì tất nhiên, xét đến cùng, vẫn là
do não trạng của người đưa ra nhận xét đó rồi. Cả cái ý kiến về “giải thiêng”
nữa, tôi cũng cho là do vậy. Tôi nghĩ, một đầu óc bình thường chứ chưa cần đến
đầu óc giáo sư, cũng phải hiểu một sự thật mười mươi: làm sao mà giải thiêng
được, nếu đó là thiêng thật. Người ta chỉ có thể giải được cái thiêng giả,
thiêng ảo thôi. Cái gì thật sự thiêng tất sẽ tồn tại, bất chấp cả những nỗ lực
“tâng hàng” lẫn “dìm hàng” của người đời. Nếu thật thiêng thì sao phải sợ giải
nhỉ?
NHQ: Thưa PGS.TS Nguyễn Thị Bình, khi LVNT bị nhận xét như vậy, cá nhân bà
và học viên đã có những đối thoại nào về chuyên môn không? Đơn vị đào tạo có tổ
chức những thảo luận nào về luận văn này không?
NTB: Tôi và bạn Thoan đã chờ đợi một cuộc
đối thoại dân chủ, cởi mở về học thuật, điều đó có ích không chỉ cho chúng tôi
mà cho cả giới nghiên cứu khoa học xã hội-nhân văn. Tiếc là đến nay một diễn
đàn như vậy vẫn chưa có. Bạn thấy đấy, báo chí chính thống hầu như chỉ đăng ý
kiến phê phán, phủ nhận. Cuộc họp của Hội đồng khoa học khoa Ngữ Văn mở rộng,
chỉ mình tôi có mặt với tư cách thành viên Hội đồng khoa học khoa đồng thời là
người hướng dẫn luận văn. Theo đề nghị của chủ tọa (Chủ nhiệm khoa), tôi giải
trình về quy trình thực hiện luận văn và về quan điểm của tôi đối với đề tài
nghiên cứu mà chị Thoan lựa chọn. Ý kiến các nhà khoa học trong Hội đồng mở
rộng của khoa được ghi thành biên bản nhưng sau cũng không thấy công bố. Khá
nhiều cán bộ của Khoa Ngữ văn đến giờ vẫn không thật sự nắm được sự việc này.
NHQ: Trường ĐHSP HN đã ra quyết định thành lập Hội đồng chấm lại LVNT và
kết luận của Hội đồng này là cơ sở để trường không công nhận LVNT, tước bằng
Thạc sĩ của Nhã Thuyên. Cá nhân quí vị được thông báo về quyết định này và biết
rõ quá trình làm việc của Hội đồng chấm lại này không?
NVG: Chúng tôi hoàn toàn không được biết họ
thành lập từ khi nào, và họ làm những gì. Chỉ đến khi chuyện vỡ lở ra, chúng
tôi mới biết có chuyện đó.
CVS: Tôi cũng thế. Khi dư luận đã cháy rồi,
dư luận đã điểm từng mặt thành viên đó rồi, tôi mới biết.
NHQ: Việc không được Hội đồng chấm lại này cho biết những kết luận khoa học
của họ, dẫn đến có hai đánh giá hoàn toàn khác biệt về LVNT, khiến quí vị có
suy nghĩ, cảm xúc gì? Cho đến thời điểm này, đánh giá của quí vị về LVNT có
thay đổi nào không?
NVG: Đầu tiên là ngạc nhiên, sau lấy làm
khó hiểu tại sao họ lại chấp nhận tham gia Hội đồng một cách thiếu cẩn trọng
như vậy. Nó không có cơ sở pháp lý để thành lập Hội đồng, theo đó là phủ quyết
điểm luận văn và tước bằng thạc sĩ của học viên.
CVS: Tôi thì không ngạc nhiên, khi biết các
thành viên hội đồng là những ai. Còn, giờ đây, nếu phải đánh giá lại LVNT, tôi
vẫn dùng bản nhận xét đã trình hội đồng trước thôi.
NHQ: Như vậy, đến thời điểm này, cả hai Hội đồng chấm LVNT vẫn chưa được
đối thoại khoa học với nhau. Là những người bị gạt ra ngoài cuộc, quí vị có ý
kiến, đề đạt gì không?
NVG: Các thành viên Hội đồng cũ cũng đã gửi
đơn kiến nghị lên ông Hiệu trưởng ĐHSPHN để yêu cầu hai điểm: cho biết cơ sở
pháp lý của những việc làm trên đối với học viên, và đề nghị tổ chức cuộc đối
thoại giữa hai Hội đồng để đảm bảo tính công khai, dân chủ, minh bạch trong học
thuật và đào tạo.
NHQ: Xin
hỏi quí vị ở tư cách nhà giáo, nhà nghiên cứu trong nhà trường đại học: Sự kiện
LVNT với những kết quả như quí vị thấy liệu có những ảnh hưởng gì đến tinh thần
học tập, nghiên cứu của học viên, đặc biệt là học viên sau đại học, vốn là
những người nhất thiết phải bước vào con đường nghiên cứu độc lập? Rất nhiều
trí thức đã lên tiếng về “tự do học thuật” ở đại học, quí vị nhận thấy điều này
nên/phải được hiểu và thực hiện như thế nào?
NVG: Về việc này, đáng lo ngại ở chỗ, nếu
không được chấn chỉnh kịp thời, nó sẽ thành một tiền lệ rất nguy hiểm trong
hoạt động nghiên cứu và đào tạo ở các trường đại học. Nó tạo nên sự hoang mang
cho những học viên muốn theo đuổi công việc học tập, nó gây ra tâm lý chán nản,
buông xuôi cho đội ngũ giáo viên, đồng thời là các nhà nghiên cứu trong các
trường đại học. Nghiên cứu khoa học là một công việc khổ ải, lương các giáo
viên đại học đang còn rất thấp. Nếu làm khoa học khổ ải như vậy, đã không được
khích lệ, động viên thì chớ, lại còn chuốc những hệ lụy khó lường thì làm sao
hy vọng có thể tạo ra niềm hứng khởi cho các nhà nghiên cứu dốc tâm sức cho
khoa học được!
CVS: Tôi cho rằng sự hô hào về một nền đại
học Việt Nam hội nhập và phát triển có thể sánh vai với các nền đại học lớn
trên thế giới sẽ là xa vời, nếu cái tối thiểu để thúc đẩy đại học là tự do học
thuật không được tôn trọng.
NHQ: Thưa PGS.TS Nguyễn Thị Bình, bà được dư luận biết đến nhiều hơn sau
khi gửi “Đơn kêu cứu” trên báo Kinh doanh và Pháp luật về việc trường ĐHSP HN ra quyết định cho bà
về hưu trước thời hạn mà không rõ lí do. Nhiều người nghĩ rằng đây là hệ lụy do
bà đã hướng dẫn LVNT. Bà có suy nghĩ vậy không? Việc “kêu cứu” của bà đang đến
đâu và có những hồi đáp nào chưa?
NTB: Tôi buộc phải gửi đơn kêu cứu đến báo
chí sau 4 lần gửi đơn kiến nghị lên lãnh đạo trường ĐHSPHN về việc trường ra
quyết định tôi nghỉ hưu sớm gần 5 năm so với Nghị định 141 của Nhà nước và vì ở
trường tôi cho tới nay chưa từng có một PGS.TS nào bị đối xử như thế cả. Sau
đơn thứ 2 tôi được ông Đăng Xuân Thư, Bí thư Đảng ủy, Phó Hiệu trưởng trả lời
miệng rằng lý do tôi phải nghỉ hưu sớm là do việc tôi hướng dẫn luận văn Th.S
của Đỗ Thị Thoan làm ảnh hưởng đến uy tín của trường. Tôi không chấp tán thành
câu trả lời này và tiếp tục gửi đơn kiến nghị lần 3 rồi lần 4. Quá thời hạn trả
lời đơn thư, tôi mới tìm đến báo. Do sự tình cờ, tôi đã gặp và được ông Tổng
biên tập báo Kinh doanh và Pháp luật nhận
đăng đơn kêu cứu của tôi. Ngay sau khi báo ra, tôi nhận được Thông báo của
trường ĐHSPHN do Trưởng phòng Tổ chức cán bộ là PGS.TS Phan Thanh Long kí, nội
dung: ¨Hiện tại trường không có nhu cầu gia hạn hợp đồng lao động với bà¨. Đây
rõ ràng là hệ lụy từ vụ việc LVNT. Họ thừa biết bộ môn Văn học Việt Nam hiện
đại của tôi đang thiếu cán bộ trầm trọng và khoa Ngữ văn đã có công văn đề nghị
trường kéo dài hợp đồng lao động với tôi theo luật định.
NHQ: Xin trân trọng cảm ơn quý vị đã tham gia cuộc phỏng vấn. Chúc quý vị
dồi dào sức khỏe, vững vàng trong học thuật để góp phần đào tạo những người
nghiên cứu trẻ tuổi bước vào con đường khoa học đầy đam mê nhưng cũng không ít
những khổ ải này.
Hà Nội, ngày
6/4/2014
Nguyễn Hiếu Quân .
Nguồn : GS. Nguyễn Đăng Hưng.blog
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét